Loại rối loạn | Định nghĩa | Chẩn đoán |
---|---|---|
Chậm pha giấc ngủ | Thường xảy ra trên thanh thiếu niên, người trẻ. Người bệnh có khuynh hướng đi ngủ muộn hơn khoảng vài giờ so với thời điểm ngủ mong muốn, cụ thể là sẽ đi ngủ vào khoảng từ 1 đến 6 giờ sáng và thức dậy vào khoảng 10 giờ sáng đến 1 giờ chiều. Than phiền chủ yếu là khó đi vào giấc ngủ ban đêm và khó thức dậy đúng giờ buổi sáng. Do phải tuân thủ thời gian làm việc/ học tập ngoài xã hội, người bệnh buộc phải dậy sớm hơn mong muốn. Kéo dài thời gian tiềm thời giấc ngủ và thức dậy sớm hơn mong muốn vào buổi sáng sẽ dẫn đến giảm tổng thời gian ngủ, và hội chứng thiếu ngủ, ảnh hưởng đến các chức năng công việc ban ngày. | Tiêu chuẩn chẩn đoán ICSD đòi hỏi có chứng cứ cho thấy có sự chậm trễ ổn định thời điểm đi ngủ so với thời điểm đi ngủ mong muốn, và than phiền mất ngủ ban đêm kèm buồn ngủ ban ngày quá mức ảnh hưởng đến chức năng làm việc hàng ngày. Xét nghiệm chẩn đoán bao gồm nhật ký giấc ngủ và theo dõi cử động ký đeo ở tay trong thời gian ít nhất 7 ngày, tốt hơn thì là 14 ngày. Than phiền về giấc ngủ không thể được giải thích bằng các bệnh nội khoa, thần kinh, hoặc thuốc men. PSG chỉ được dùng để loại trừ các chẩn đoán khác khi nghi ngờ và phù hợp. |
Sớm pha giấc ngủ | Thường xảy ra trên người lớn tuổi. Người bệnh có khuynh hướng đi ngủ sớm hơn khoảng vài giờ so với thời điểm ngủ mong muốn, cụ thể là sẽ đi ngủ vào khoảng từ 6 đến 9 giờ tối và thức dậy vào 2 đến 5 giờ sáng. Than phiền chính là mất ngủ kiểu thức giấc quá sớm buổi sáng, không thể duy trì giấc ngủ, và buồn ngủ vào buổi chiều muộn hay đầu đêm. Buồn ngủ quá sớm vào đầu đêm làm người bệnh không thể tham gia tích cực các hoạt động vào lúc này và rối loạn các hoạt động xã hội cho thời điểm này. | Tiêu chuẩn chẩn đoán ICSD đòi hỏi có chứng cứ cho thấy có sự sớm lên ổn định thời điểm đi ngủ so với thời điểm đi ngủ mong muốn, và than phiền mất ngủ ban đêm do không thể ngủ đủ thời gian như mong muốn, kèm buồn ngủ ban ngày quá mức vào thời gian đầu đêm ảnh hưởng đến chức năng làm việc hàng ngày. Xét nghiệm chẩn đoán bao gồm nhật ký giấc ngủ và theo dõi cử động ký đeo ở tay trong thời gian ít nhất 7 ngày, tốt hơn thì là 14 ngày. Than phiền về giấc ngủ không thể được giải thích bằng các bệnh nội khoa, thần kinh, hoặc thuốc men. PSG chỉ được dùng để loại trừ các chẩn đoán khác khi nghi ngờ và phù hợp. |
Chu kỳ thức ngủ không phải 24 giờ | Người bệnh thể hiện chu kỳ ngủ mỗi ngày dài ra thêm 1 - 2 giờ. Bệnh này ít gặp trong dân số chung, ngược lại hay gặp trên dân số bị mù. Ước đoán, 50% người mù hoàn toàn có chu kỳ giấc ngủ không phải 24 giờ. 70% người mù có than phiền rối loạn giấc ngủ. | Khai thác bệnh sử chi tiết có thể giúp chẩn đoán. Tiêu chuẩn ICSD đòi hỏi phải có các than phiền mất ngủ hoặc buồn ngủ ban ngày quá mức liên quan đến cố gắng ngủ vào các thời điểm mong muốn trong ngày. Kéo dài chu kỳ thức ngủ mỗi ngày 1 - 2 giờ cần phải được khẳng định lại với nhật ký giấc ngủ và hoặc cử động ký đeo ở tay ít nhất 14 ngày. Cần phải loại trừ bệnh nội khoa, thần kinh, dùng thuốc khác. |
Rối loạn chu kỳ thức ngủ do làm việc ca kíp | Người bệnh than phiền buồn ngủ ngày quá mức và/ hoặc mất ngủ liên quan đến việc làm ca kíp, chủ yếu là ở ca đêm. Mất ngủ là do người bệnh phải ngủ trong môi trường/thời gian có các xung động gây thức tỉnh cao, ngược lại, buồn ngủ ban ngày quá mức là do người bệnh bị thiếu ngủ và phải thức trong môi trường/ thời gian có xung động gây thức tỉnh thấp. Người làm việc ca đêm và người làm việc quá sớm, nghĩa là khoảng 6 giờ sáng, thường bị ảnh hưởng nhiều nhất. Nghiên cứu cho thấy người làm việc ca kíp như vậy có tổng thời gian ngủ thấp hơn người làm việc ca ngày từ 1 - 4 giờ mỗi ngày. | Khai thác bệnh sử chi tiết có thể giúp chẩn đoán. Tiêu chuẩn ICSD đòi hỏi phải có các than phiền mất ngủ hoặc buồn ngủ ban ngày quá mức liên quan đến làm việc ca kíp xảy ra trong khoảng thời gian ngủ bình thường kéo dài ít nhất 1 tháng. Lệch lạc giữa giờ ngủ mong muốn và thực tế cần phải được khẳng định lại với nhật ký giấc ngủ và hoặc cử động ký đeo ở tay ít nhất 7 ngày. Cần phải loại trừ bệnh nội khoa, thần kinh, dùng thuốc khác. |
Rối loạn chu kỳ thức ngủ do lệch múi giờ | Xảy ra do đồng hồ sinh học trong cơ thể bị lệch với nhịp điệu ngày đêm bên ngoài trên cá nhân di chuyển bằng máy bay vượt qua khoảng cách địa lý ≥ 2 múi giờ. Không phải mọi người đều bị rối loạn chu kỳ thức ngủ do lệch múi giờ. Các yếu tố nguy cơ gồm: tuổi tác, số múi giờ bị vượt qua, và chu kỳ thức ngủ bình thường của người đó thiên về sớm pha hay muộn pha. Một nghiên cứu cho thấy 78% người di chuyển như vậy có than phiền rối loạn giấc ngủ, 49% mệt mỏi ban ngày, 26% giảm năng suất làm việc trí óc, 24% rối loạn dạ dày ruột, và 18% kích thích, bứt rứt. | Khai thác bệnh sử chi tiết và khám lâm sàng có thể giúp chẩn đoán. Tiêu chuẩn ICSD đòi hỏi phải có các than phiền mất ngủ hoặc buồn ngủ ban ngày quá mức xuất hiện sau khi di chuyển vượt khoảng cách địa lý ≥ 2 múi giờ. Than phiền mất ngủ và buồn ngủ ban ngày quá mức không phải do bệnh nội khoa, thần kinh, dùng thuốc khác. Nếu rối loạn giấc ngủ do lệch múi giờ kéo dài > 2 tuần sau khi di chuyển, cần chẩn đoán mất ngủ do nguyên nhân thần kinh tâm lý, vệ sinh giấc ngủ kém là một nguyên nhân. |
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Alon Y Avidan. Review of Sleep Medicine. Fourth edition. Philadelphia, PA: Elsevier [2018] p. 111 – 243.
TS.BS. Lê Khắc Bảo